Trong quá trình sản sinh tinh trùng của tinh hoàn nếu như có những bất thường xảy ra thì sẽ dễ dẫn đến hậu quả là con cái sinh ra bị rối loạn về giới tính. Các rối loạn biệt hóa giới tính do loạn sản tinh hoàn bao gồm:
+ Hội chứng Klinefelter
+ Hội chứng Turner
+ Loạn sản tuyến sinh dục
+ Lưỡng tính thật
Hội chứng Klinefelter
Hội chứng Klinefelter là bệnh thiểu năng sinh dục nguyên phát hay gặp và thường gây vô sinh nam. Thể bệnh hay gặp nhất lúc trưởng thành là hình dáng nam giới, tinh hoàn rắn và nhỏ kèm theo vô tinh, vú phì đại. Tần số của thai nhi có Hội chứng Klinefelter là 1 trên 1000 trẻ sơ sinh nam
Về di truyền thì bệnh nhân có 47 nhiễm sắc thể với nhiễm sắc thể giới tính là XXY. Tuy nhiên còn có nhiều loại hình nhiễm sắc thể giới tính khác, kể cả loại hình khảm. Tất cả các loại hình này đều có điểm giống nhau là có ít nhất 2 nhiễm sắc thể X và một số nhiễm sắc thể Y, ngoại trừ một số bệnh nhân rất ít chỉ có 2 nhiễm sắc thể XX.
Nguyên nhân, cơ chế gây bệnh
Sự hình thành bộ nhiễm sắc thể 47-XXY xảy ra là do các nhiễm sắc thể không tách ra trong giai đoạn 1 và 2 của phân bào giảm nhiễm của các giao tử.
Theo nghiên cứu thì gần 2/3 các trường hợp Hội chứng Klinefelter là do về phía người cha, 1/3 là do người mẹ, nhiễm sắc thể không tách ra ở giai đoạn 1 của phân bào giảm nhiễm.
Ngoài ra thì Hội chứng Klinefelter cũng có thể do nhiễm sắc thể không tách ra ở giai đoạn 2 của phân bào hay ở giai đoạn sau hợp tử.
Dấu hiệu nhận biết của Hội chứng Klinefelter
Trước tuổi dậy thì, có thể phát hiện tinh hoàn bé, chân dài quá khổ, rối loạn về hành vi và cá tính, tổng chỉ số thông minh (IQ) vẫn bình thường.
Sau tuổi dậy thì vú bắt đầu phì đại, hệ lông, râu kém phát triển, dương vật bé, cơ bắp nhẽo hành vi giống người bị hoạn. Ở các bệnh nhân này, biểu hiện của dậy thì thường xuất hiện chậm.
Lúc đến tuổi trưởng thành, bệnh nhân có thân hình cao to, chân rất dài, dễ bị thưa xương do thiếu hormon steroid và một số bệnh khác như đái tháo đường, giãn tĩnh mạch, viêm da do ứ trệ, bị bệnh mạch máu ở não, bệnh phổi mạn tính…
Đặc biệt người bị Hội chứng Klinefelter có khả năng bị ung thư vú rất cao, gấp 20 lần so với nam giới bình thường. Ngoài ra bệnh nhân có thể bị các u tế bào mầm ác tính ngoài tinh hoàn ở trung thất và hệ thần kinh trung ương gây dậy thì sớm 1 cách nghịch lý.
Tổn thương ở tinh hoàn tiến triển từ từ. Các ống sinh tinh bị xơ hóa và biến thành hyalin. Quá trình sinh tinh ngừng hoạt động , các tế bào Leydig có dạng u tuyến. Mặc dù có sự khác nhau giữa bệnh nhân này và bệnh nhân khác nhưng đều phổ biến là vô sinh.
Xem thêm: Vô sinh nam giới, những điều cần biết
Phương pháp điều trị
Điều trị Hội chứng Klinefelter dựa vào sử dụng androgen thay thế , đặc biệt khi lúc dậy thì muộn hay khi nồng độ testosterone quá thấp.
Sau khi điều trị bằng testosteron thay thế, các đặc điểm thứ yếu sinh dục được biểu hiện rõ hơn, thưa xương giảm và tuyến vú giảm phì đại.
Testosteron thường được sử dụng bằng cách tiêm bắp và về sau có thể dùng testosteron qua da. Nếu tuyến vú còn phì đại thì có thể cần đến phẫu thuật tạo hình.
Hội chứng Turner (45-X)
Hội chứng Turner có thể gặp với tỷ lệ là 1 trên 5000 trẻ sơ sinh nữ. Người ta ước tính có khoảng 15% các trường hợp sẩy thai vào tháng thứ 3 có bộ nhiễm sắc thể 45-X. Các bệnh nhân Turner chiếm đến 50% trên tổng số các bệnh nhân có nhiễm sắc thể X bất thường.
Dấu hiệu nhận biết
Các dấu hiệu điển hình của bệnh nhân bị Hội chứng Turner là thân hình bé nhỏ, bộ phận sinh dục ấu trĩ lúc dậy thì, làn da ở gáy cổ nhẽo và đôi chân phù vì bạch huyết. Bộ mặt có những nét đặc trưng như cằm nhọn, khóe mắt lồi, tai vểnh, trụp mi ngắn, cổ ngắn và bạnh ra 2 bên.
Rối loạn ở các bộ phận khác cũng hay gặp như tăng huyết áp, hẹp động mạch chủ, thận dị dạng, cẳng tay khoèo, vẹo cột sống, viêm tai giữa… Các ống sinh dục ở cơ quan ngoài thường biệt hóa nữ trừ những trường hợp rất hiếm như có sự chuyển vị giữa các nhiễm sắc thể Y sang X.
Chiều cao trung bình của bệnh nhân Hội chứng Turner khi lớn chỉ khoảng 143 cm. Hiện tượng này không phải do thiểu năng các hormon tăng trưởng hoặc tuyến giáp mà là do khuyết tật gen. Tuy nhiên triệu chứng này có thể khắc phục bằng cách tiêm hormon tăng trưởng.
Một đặc điểm nữa cũng rất quan trọng ở bệnh nhân Turner là các tuyến sinh dục bị teo và loạn sản, có nhiều mô xơ. Vì chức năng của buồng trứng bị giảm sút nên dậy thì đến muộn hoặc không có, bộ phận sinh dục kém phát triển. Tuy nhiên vẫn có một số ít bệnh nhân vẫn có dậy thì, có kinh nguyệt và có thai.
Cách chẩn đoán
Chẩn đoán Hội chứng Turner dựa vào bộ nhiễm sắc thể, chiều cao giảm rõ rệt, loạn sản tuyến sinh dục kèm theo các bất thường của cơ thể, dậy thì muộn kèm theo nồng độ FSH huyết tương tăng cao…
Phương pháp điều trị
Điều trị Hội chứng Turner với mục tiêu là nâng chiều cao lên, thúc đẩy các đặc điểm thứ yếu sinh dục và tạo điều kiện cho bệnh nhân có kinh nguyệt đúng lúc:
+ Thuốc được dùng là hormon tăng trưởng tổ hợp phối hợp với oxandrolon và kết quả cho thấy chiều cao có thể tăng từ 8-10 cm sau 3-7 năm.
+ Từ 12 tuổi trở lên có thể dùng estrogen hay ethinyl estradiol trong 21 ngày đầu tháng để tạo kinh nguyệt.
+ Sau năm đầu dùng estrogen, tiếp tục dùng medroxy progesteron acetat hay progestin từ ngày thứ 10-21 của chu kỳ kinh nguyệt để có kinh nguyệt đều và sinh lý bình thường, đồng thời tránh ung thư nội mạc tử cung do sử dụng quá liều estrogen.
Loạn sản tuyến sinh dục
Các bệnh nhân có loạn sản tuyến sinh dục với bộ nhiễm sắc thể 46-XX hoặc 46-XY đều có hình dáng phụ nữ, tuyến sinh dục teo nhỏ và không có những dấu hiệu đặc trưng của hội chứng Turner.
Loạn sản tuyến sinh dục 46-XX
Các nhà khoa học Phần Lan đã nghiên cứu và ước tính tỷ lệ mắc phải bệnh này là khoảng 1/8300 phụ nữ. Bệnh lý này có thể di truyền hoặc xảy ra ngẫu nhiên rải rác trong cộng đồng.
Trong chẩn đoán cần phân biệt với các trường hợp buồng trứng đa nang, suy giảm chức năng buồng trứng do bệnh lý như quai bị hoặc các bệnh miễn dịch khác.
Loạn sản tuyến sinh dục 46-XY
Người mắc bệnh lý này có dáng vóc bình thường hoặc cao, cơ quan sinh dục ngoài biệt hóa nữ ấu trĩ, tuyến sinh dục teo, ống Muller vẫn tồn tại. Căn bệnh này cũng có thể theo di truyền hoặc xảy ra ngẫu nhiên rải rác trong cộng đồng.
Việc điều trị các bệnh nhân này tùy theo hướng giới tính là nữ hay nam. Nếu hướng giới tính nữ thì cần cắt bỏ tuyến sinh dục và sử dụng hormon estrogen thay thế vào lúc dậy thì. Còn nếu hướng giới tính nam thì nên cắt bỏ tinh hoàn và thay thế bằng tinh hoàn giả kèm sử dụng androgen thay thế từ lúc dậy thì trở đi.
Xem thêm: Cấu tạo giải phẫu tĩnh hoàn nam giới
Lưỡng tính thật
Lưỡng tính thật là bệnh lý có mô tinh hoàn và mô buồng trứng ở 1 hoặc cả 2 bên tuyến sinh dục. Vì vậy biệt hóa ở cơ quan sinh dục trong và ngoài rất đa dạng.
Cơ quan sinh dục ngoài có thể giống nam hoặc giống nữ, nhưng phần lớn khó phân biệt. Trường hợp thường gặp nhất là tinh hoàn ẩn và lỗ tiểu thấp. Tinh hoàn hay buồng trứng tinh hoàn (ovotestis) có thể nằm trong vùng bìu, môi lớn, vùng bẹn hay ở trong ổ bụng. Tử cung cũng hay gặp và thường là teo nhỏ.
Thông thường trong lưỡng tính thật người ta nhận thấy sự hiện diện của 1 ovotestis là 60%, tiếp đến là 1 buồng trứng và cuối cùng là 1 tinh hoàn.
Trong nhiều trường hợp, tinh hoàn và phần tinh hoàn của ovotestis bị loạn sản, chỉ có mô buồng trứng là có nhiều khả năng hoạt động
Để chẩn đoán bệnh lưỡng tính thật thì cần tiến hành xét nghiệm tìm bộ nhiễm sắc thể 46-XX hoặc 46-XY và phát hiện ovotestis ở vùng bìu – môi lớn. Ở trẻ 6 tháng tuổi, nồng độ testosteron huyết tương có thể trên 49 ng/dL và tăng lên sau khi được kích thích bằng HCG. Trong trường hợp nghi vấn cần nội soi kỹ ổ bụng để chẩn đoán xác định.
Việc điều trị phải tùy theo chẩn đoán, chức năng của tuyến sinh dục và tình trạng cơ quan sinh dục ngoài.
Trong mọi trường hợp, phải cảnh giác với khả năng ung thư tuyến sinh dục. Kể cả với các bệnh nhân có loạn sản tuyến sinh dục và có hiện tượng phát triển nam tính rất nhanh cũng cần phải theo dõi kỹ.
Đặc biệt cần phải lưu ý khi bị ung thư tuyến sinh dục thì di căn có thể xuất hiện sớm, trước khi sờ thấy khối u ở tuyến sinh dục.
Qua bài viết trên chúng ta tìm hiểu một số hiện tượng rối loạn giới tính mà nguyên nhân chủ yếu do bất thường nhiễm sắc thể gây ra. Hy vọng bài viết này sẽ hữu ích với độc giả.